Skip to content

Giới thiệu

HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC VÀ BỘ HẢI THƯỢNG Y TÔNG TÂM LĨNH

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một trong những vị danh y của nước ta. Không những ông tích cực chữa bệnh cho người bệnh đương thời, còn soạn bộ "Y tông tâm lĩnh" cho đời sau. Học tập trước tác của ông, chúng ta cần tìm hiểu cuộc đời của ông và rút ra những bài học lớn, những quan niệm đúng đắn của ông. Trước khi nghiên cứu sâu nội dung cũng cần nắm được những nét lớn cách phân bố của bộ sách. Đó là những điểm cần thiết được trình bày sau đây.

I- TIỂU SỬ

Lê Hữu Trác sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý (tức ngày 11 tháng 12 năm 1720), Nguyên quản ở thôn Văn xá, huyện Dường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Liêu xá, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng). Năm 1746, ông về quê mẹ ở xứ Bầu Thượng, xã Tỉnh Diệm (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Nghệ Tĩnh). Ông qua đời tại đó ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) - thọ 71 tuổi.

Hiệu "Hải Thượng” của ông ghép từ chữ "Hải" của tên tỉnh Hải Dương, và chữ "Thượng" của tên phủ Thượng Hồng, bạn của xứ Bầu Thượng Lãn Ông có nghĩa là ông lười, người không ham danh lợi.

Ông xuất thân từ một gia đình khoa bảng. Ông nội là Lê Hữu Danh, đậu nhị giáp Tiến sĩ. Cha là Lê Hữu Mưu, đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ, anh là Lê Hữu Kiển, đậu đệ tam giáp Tiến sĩ... Ông là con thứ bảy, theo cha lên ở kinh thành Thăng long (nay là Thủ đô Hà nội). Hồi nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, học giỏi, hiểu rộng, thơ hay. Không may đến năm 20 tuổi (Kỷ mùi - năm 1739) cha mất, ông tiếp tục đọc sách, thi tam trường, sau đó không đi thi thêm lần nào nữa.

Ông học binh thư, luyện võ, vào quân đội chúa Trịnh năm 1740, ông cầm quân thường thắng trận, Thống tướng của chúa Trịnh muốn cất nhắc, nhưng ông không ham, lấy cớ nọ cớ kia mà từ chối. Nhân có tin người anh ruột là Lê Hữu Chân chết để lại ba con nhỏ, ông xin xuất ngũ để về quê nuôi mẹ là bà Bùi Thị Thưởng, và giúp đỡ gia đình người anh.

Về quê không bao lâu ông ốm nặng, chữa chạy vài năm không khỏi, phải chuyển đến Rú thành (ở Nghê An) được cụ Lương y Trần Đọc chữa bệnh (1749). Trong thời gian hơn một năm ở đó. nhân tính ham hoc hỏi, ông đọc sách thuốc, có điều gì không rõ được cụ Trần Độc giảng giải cho. Khi khỏi bệnh ông về nhà tiếp tục tìm sách đọc thêm, ông giao tiếp với một lương y khác cũng họ Trần ở làng Đậu xá bên cạnh. Ông trao đổi học hỏi thêm vài năm nữa, và bắt đầu chữa bệnn, hành nghề. Mùa thu năm 1754 ông ra kinh đô mua thêm sách thuốc mang về Hương Sơn. Nhờ thông minh, chăm chỉ, có quyết tâm theo hướng đã định, nghề thuốc có nhiều tiến bộ, ông nổi tiếng khắp vùng Hoan Châu (nay là Nghệ Tĩnh).

Năm 1760, ông viết sách và dạy thuốc cho môn đệ. Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 48 (1782) chúa Trịnh triệu ông ra kinh đô chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh. Tuy các bài thuốc do ông kê ra đều có phần hiệu nghiệm, ông cũng không chắc là chữa khỏi được vừa là bệnh khó vừa gặp sự đó kỵ của các Ngự y thời đó. Vốn không ham cảnh rộn rịp và đầy bất trắc ở nơi đế đô, ông tìm cách cáo về càng sớm càng tốt. Quả nhiên, ông về quê chỉ ít lâu sau đã nghe tin Chánh Đường tức là Hoàng Đình Bảo, người giúp đỡ cho ông đã bị giết, vì liên quan với phe Đặng Thị Huệ.

Về quê ông tiếp tục bổ sung bộ "T tông tâm lĩnh", và viết thêm tập “Thượng kinh ký sự". Tập này cung cấp thêm tư liệu văn học giá trị, phản ảnh người và việc trong thời đại phong kiên lúc bấy giờ.

II- NHỮNG QUAN ĐIỂM LỚN

Tư tưởng và sự nghiệp của Lãn Ông gắn liền với thực tế xã hội, với những điều kiện dương thời. Lãn Ông là một nhân vật đặc biệt, tất nhiên có nhiều quan điểm tốt đẹp để lại cho đời sau.

  1. Quan điểm về cuộc sống:

Lãn Ông sinh ra và sống trong một thời đại có tình hình chính trị không ổn định. Cả nước chia ra Đàng ngoài và Đàng trong. Đàng ngoài có chúa Trịnh phò Lê, có nhiều cuộc nồi dậy: Nguyên Dương Hùng (1737), Nguyễn Tuyến (1739), Nguyễn Hữu Cầu, tức quận He (1743-1751)?, Nguyễn Danh Phương tức Quân Hẻo (1740-1756)... Đàng trong từ đèo Ngang trở vào có chúa Nguyễn tức Nguyễn Hoàng. Phong trào nông dân khởi nghĩa Tây sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ đứng đầu đánh bại chúa Nguyễn, quân Xiêm, ra bắc diệt Trịnh, đánh bại quân Thanh. Thêm vào tình hình trên là nạn trộm cướp, cường hào rất hỗn loạn. Do tình hình chính trị không ổn định, phe phái này chèn ép phe phái khác, có tình trạng người ngay chết oan. Tư tưởng sĩ phu hoang mang nhiều người không tham gia chính cuộc, rút lui về vùng thôn đã ở ẩn. Cũng có người tự cho mình là "cao sĩ" rồi mục nát với cỏ cây. Lãn Ông hồi nhỏ đã ở kinh đô, đã cầm quân đánh trận, từng sống trong hàng nho sĩ đã thổ lộ tâm trạng "cái chí bon chen trong trường danh lợi mình đã vứt bỏ từ lâu..." (Y huấn). Trong cái hoang mang chung của nhà nho. Lãn Ông tìm hướng đi trong dịp dưỡng bệnh tại Rú Thành, vào hồi hơn 30 tuổi. "Nghề y thiết thực ích lợi cho mình, giúp đỡ được mọi người Y huấn). Đó là một hướng đi tích cực, đúng đắn, thiết thực, cao quý. Hướng đi ấy có tính chất lý tưởng hóa bản tính và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của ông từ đó về sau.

Chí hướng đó đã trở thành quyết tâm lớn: “Tôi đã hiến thân cho nghề thuốc nên lúc nào cũng muốn làm hết sức mình trước thuật cho nhiều để dựng cờ hồng trong ngành y" - (Y huấn).

Bản thân trước 30 tuổi chưa làm nghề y, cho nên làm nghề y là hướng mới về sau. Và suốt bốn mươi năm còn lại, ông đã phải nỗ lực rất nhiều để xây dựng sự nghiệp, có tính tích cực, có ích lớn cho xã hội. Bởi có quan điểm sống đúng đắn như vậy mà các quan điểm khác về nghề nghiệp, phục vụ cũng đều có nhiều đặc điểm.

  1. Quan điểm về nghề nghiệp, về ý thức phục vụ:

Lãn Ông nhiều lần nhấn mạnh "Nghề thuốc là một nghề thanh cao, là một nghề có lòng nhân..." Từ đó mà các mạt đạo đức, trách nhiệm, động cơ, thái độ, tác phong, nghiệp vụ... của ông đều đạt tới một tầm cao đặc biệt.

Ông nói: "đạo làm thuốc là một nhân thuật có nhiệm vụ giữ gìn tính mạng người ta, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc giúp người, làm phận sự của mình mà không câu lợi kể công” (Y huấn).

"Thầy thuốc là người bào vệ sinh mạng của con người, tử sinh họa phúc đều ở tay mình quyết định...” (Âm án).

Lãn Ông thể hiện rất rõ tính nhân đạo trong từng khâu của nghiệp vụ: Chẩn đoán, suy luận, điều trị, dùng thuốc... Ông không nề hà khó nhọc, dù đêm hôm, dù đang ốm yếu, dù đường xa, qua núi rừng.... ông thăm khám trực tiếp chu đáo rồi mới ra đơn, kể cả trường hợp bệnh có thể lây lan hoặc bệnh dễ lây như ghẻ lở. Đáng dùng thuốc gì ông dùng thuốc đó dù là thứ đắt tiền, dù biết rõ bệnh nhân sau này không có khả năng trả. Có trường hợp bệnh nhân khỏe rồi, nhưng nghèo không có gì để sinh sống, ông còn chu cấp thêm cho tiền gạo. Ông nói "Phần mình phải hết sức suy nghĩ, đem hết khả năng để làm kế tìm cái sống trong cái chết cho người ta (Âm án).

Đối với thầy thuốc “cái bệnh” là đối tượng số một. Bệnh nguy cần chữa trước, bệnh chưa nguy có thể để chậm lại sau, tùy trường hợp mà giải quyết kịp thời và chu đáo. Do xác định được đối tượng số một đó mà Lãn Ông đặt sang bên những điểm khác như giầu nghèo, quyền uy, định kiến, sở thích, thuật số...

  1. Quan điểm về trước tác và truyền thụ:

Người viết sách có nhiều động cơ và thái độ khác nhau, đúng sai hay dở khác nhau. Lãn Ông có quan điểm sống và ý thức phục vụ như trên nên động cơ và mục đích của ông vẫn đúng. Ông muốn "thâu tóm hàng trăm cuốn sách, đúc thành một pho để tiện xem, tiện đọc..." Sách thuốc như rừng, lời bàn lắm ngả, yêu cầu có một bộ sách tóm gọn là một yêu cầu về học thuật của thời đại. Sách của ông viết xong đến đâu đã có người chép tay truyền nhau.

Điểm đặc biệt trong việc soạn sách là Lãn Ông đã xác định quan điểm sau: "Tôi nghĩ việc trước thư lập ngôn không phải dễ. Ngạn ngữ có câu: "cho thuốc không bằng cho phương", vì thuốc chỉ cứu được một người, cho phương thì giúp đỡ người ta vô tận. Nhưng nghĩ cho kỹ, nếu trong phương có một vị không đúng thì hàng trăm nhà chịu tai hại. Huống chi viết lên sách, mỗi lời nói đều thành khuôn phép nhất định, khó mà thay đổi được, nhỡ trong câu có điều sai lầm, thì tai hại còn lớn hơn những bài thuốc nhiều" (Y huấn). Kê đơn chữa bệnh nếu có chỗ sơ xuất, chỉ chết một người bệnh đø và thầy thuốc cơ thể rút kinh nghiêm tránh cho lần khác. Khi giảng dạy thấy nơi có điều sai, một số người nghe sau về chữa bệnh gặp điều sai đó cũng sẽ rút kinh nghiệm, nhưng số người bị hại sẽ nhiều hơn. Còn như việc viết sách cho hàng ngàn, hàng vạn... người học thì tai hại sẽ vô cùng, điều tai hại ấy cũng dây dưa từ đời này qua đời khác. Viết sách quan hệ như vậy, không thận trọng sao được!. Trách nhiệm người cầm bút lớn lao như vậy, viết cấu thả sao được!. Không những sách chuyên môn mà các loại sách khác cũng vậy. Nhà văn Tô Hoài thấm thía điều này, cũng ghi đoạn văn trên đây của Lãn Ông làm phương châm viết văn cho mình (báo văn nghệ ngày 23/4/83).

Với tính thần thận trọng như vậy, Lãn Ông còn đem hết tâm huyết của mình ra, "vắt hết ruột gan, moi tận đáy lòng”... rõ ràng tinh thần trách nhiệm xây dựng học thuật và ý thức phục vụ của ông thật là triệt để và cao cả.

Trong việc truyền thụ nghề nghiệp cho môn đệ, ông cũng rất chu đáo. Ông chủ trương dạy bằng nhiều lối để người học nắm vững được chuyên môn.

  1. Quan điểm về thừa kế và học tập:

Trong thừa kế và học tập, Lãn Ông có những đặc điểm như sau:

a) Ông nêu cao tinh thần khổ học. Có thể thấy rõ ở một đoạn văn trong quyển Y hải cầu nguyên: "tìm hiểu sách vở của khắp các nhà, nghiên cứu ngày đêm, mỗi khi được một câu cách ngôn của hiền triết xưa thì ghi ngay tại chỗ biên luận kỹ càng, thức nhấp luôn luôn suy nghĩ. Phàm những chân lý ngoài lời nói, phần nhiều nảy ra trong lúc suy tưởng, nhân đó suy rộng ra, càng ngày càng tinh vi, như chiếc vòng không cùng tận...".

b) Học tập có chọn lọc: Hai chữ "tâm lĩnh" trong tên bộ sách cũng đã nói lên cách học có chọn lọc của ông. Ông đã lĩnh hội được những điều hay mới đưa vào sách. Y của ông muốn chắt lọc lấy những tinh hoa của các sách, những vốn quý của dân gian về y học để đưa vào một bộ sách tóm gọn để tiện xem, tiện đọc...". Chẳng hạn trong số lượng lớn bài thuốc cũ, ông chọn một số bài mà ông cho là có nhiều hiệu quả, ông đã có nhiều kinh nghiệm vận dụng, viết thành một quyển gọi là “Tâm đắc thần phương".

c) Học tập có sáng tạo: Ông nghiên cứu sách xưa, nhưng có nhiều chỗ ông không rập khuôn hoàn toàn như xưa. Ông đã có đóng góp những chỗ mới về lý thuyết, về phương thang. Ông lập luận riêng về bệnh ngoại cảm ở nước ta, ông đặt ra ba phương giải biểu và sáu phương hòa lý (Ngoại cảm thông trị). Ông lại sáng chế ra một số bài mới ghi lại ở quyến "Hiệu phỏng tân phương".

d) Học tập có phương pháp: trong việc học tập cần phải đọc rộng, tham khảo nhiều. Khi đã có tư liệu nhiều rồi phải biết sắp xếp tóm gọn cho hệ thống thì mới tránh được bệnh tản mát, hoặc lộn xộn mâu thuẫn nhau. Ông nói: "học được rộng, biết được nhiều điều xa lạ mà quy hẹp lại cho thật đơn giản và sát đúng mới là đặc sắc trong y thuật" (Ngoại cảm thông trị)".

Giữa học và hành, ông khuyên phải có sự "biến thông linh hoạt".

đ) Học tập với tinh thần suy nghĩ độc lập: Ông thừa kế sách xưa một cách toàn tâm toàn ý. "Khi có chút thì giờ nhàn rỗi, là nghiên cứu các sách thuốc xưa nay, luôn luôn phát huy biển hóa, thâm nhập được vào tâm, thấy rõ được ở mắt thì tự nhiên ứng vào việc làm mà không sai lầm”.

Tuy nhiên, ông vẫn có tinh thần suy nghĩ độc lập, ông cũng tự hào với những phát kiến độc đáo. Một vấn đề được đặt ra: Có nên công bố những thành quả của sự suy nghĩ độc lập trong học tập ấy không? Ông nghĩ: không công bố là một thứ "khiêm tốn giả tạo", giữ làm của riêng ích kỷ, hoặc bỏ hoài phí cái hay, người khác không được biết tới. Công bố thì lại có người cạn nghĩ cho là ông hợm mình, tự cho mình có phần hơn người xưa. Ông tránh được cái sáo đó, và quyết định: "... Tôi thà mắc tội với tiền bối, chứ không phụ cái sở học của mình". "...mong làm sáng tỏ thêm những chỗ văn chưa sáng nghĩa, những phần lý luận trước đây chưa đầy đủ..." (Đạo lưu dư vận - Bài tựa), "...lưu lại một chút khổ tâm của tôi trong việc nghiên cứu Y học" (Hiệu phỏng tân phương). Điều đó phần nào nói lên lòng quả cảm, đồng thời sự tích cực xây dựng học thuật của ông, bất chấp những thông tục không cần thiết.

Với tinh thần và phương pháp học tập chịu khó, chọn lọc, sáng tạo và suy nghĩ độc lập như trên, ông nắm vững học thuật và có sự xây dựng, đóng góp to lớn về các mặt.

  1. Phong cách đối xử:

Trong các trước tác, Lãn Ông cũng để lại những phong cách đối xử rất xác đáng, cần thiết cho một người thầy thuốc chân chính.

a) Đối với mọi người nói chung: đối với người lớn tuổi thì mình phải kính trọng; người học giỏi thì coi như bậc thầy, người kiêu ngạo thì mình nhân nhượng, người kém mình thì dìu đắt họ học tập" (Y huấn). Ông luôn luôn khiêm tốn, không hề tự cao tự đãi, khoe khoang, luôn tranh thủ sự đồng tình của người khác để cầu học hoặc thu kết quả trong việc làm. Đối với bạn đồng nghiệp cũng vậy, chẳng hạn có dịp gặp người bạn ở nhà người bệnh, có phải tranh luận thì ông cũng để tính mạng của bệnh nhân lên trên hết mà bàn cho ra lẽ, giúp đỡ lẫn nhau để cùng thống nhất nhận định, thống nhất cách điều trị (Y dương án số 2, 4, 15...).

b) Đối với người bệnh: Ông tận tình cứu chữa, đối với bệnh gấp thì cứu bệnh như cứu hỏa, đối với bệnh nguy thì ông tìm hết cách để cứu vãn, cho đến khi âm dương ly thoát mới đành chịu thôi. Ông không tin thuyết định mệnh, dù thất bại trong trường hợp nào đó ông cũng không đổ tại số mệnh như nhiều thầy thuốc khác. Kế cả trường hợp có oán thù, nếu có, cũng "không vì oán thù mà khác chí..." (Âm án).

Ông quan tâm nhiều đến người nghèo. Ông nói: "Nhà giầu không thiếu gi thầy thuốc, còn nhà nghèo khó lòng rước được lương y, vậy cần lưu tâm cứu chữa cho những người này thì họ mới sống được".

Đối với phụ nữ, ông giữ nghiêm túc triệt để. Ông khuyên: "Khi xem bệnh cho đàn bà, con gái, đàn bà góa, ni cô cần phải có người nhà ở bên cạnh mới bước vào phòng mà xem bệnh, để tránh hết sự nghi ngờ. Dù cho đến hạng người buôn son bán phấn cũng vậy, cũng phải đứng đắn, coi họ như con nhà tử tế, chớ nên đùa cợt mà mang tiếng bất chính, sẽ bị hậu quả về tà dâm'”.

c) Đối với việc nhận quà cáp: thông thường ai giúp mình một việc gì, thì mình cám ơn người đó, huống hồ bệnh nặng, nguy, hoặc có thể chết được, người ta cứu cho thì ít nhiều mình có mang ơn. Nhân dân ta vốn có tính thuần hậu, không khi nào quên ơn người đã giúp mình, muốn bày tỏ lòng chịu ơn không thể nào không trả ơn bằng lời nói, bằng vật chất, hoặc bằng việc làm; điều đó được coi như là hoàn toàn chính đáng và hợp tình, hợp lý, mà người bệnh không làm, luôn tự thấy băn khoăn. Nhưng điều đáng chê trách là đôi khi món quà quá đáng đối với sự việc, hoặc quá lớn đối với khả năng của người bệnh, hoặc kèm theo những động cơ không đúng, hoặc đem lại những hậu quả không trong sạch, lành mạnh. Những món quà không chính đáng có thể hạ thấp phẩm chất thầy thuốc, biến thầy thuốc thành kẻ phụ thuộc, người nô lệ của vật chất hoặc của quyền uy Điều đó hoàn toàn trái với ý kiến của Lãn Ông. "Nghệ thuốc là thanh cao, ta càng phải giữ khí tiết cho trong sạch...". "Khi chữa cho ai khỏi bệnh rồi, chớ có mưu cầu quà cáp, vì người nhận quà hay sinh ra nể nang, huống chi đối với những kẻ giầu sang tính khí thất thường, mình cầu cạnh hay bị khinh rẻ...".

Nói chung, theo Lãn Ông phương châm xử thế của người thầy thuốc là: "Quên mình cứu chữa người ta, ngoài ra Tất cả chỉ là mây trôi" (Y huấn).

Người có chí khí muốn thành công trên đường đời, muốn đóng góp lợi ích cho xã hội, thường gặp một điều khó khăn nhất là tìm được hướng đi, quan điểm đúng đắn - kế hoạch, phương pháp làm việc hiệu quả. Những điều trên đây rút ra từ trước tác của Lãn Ông, có thể gọi là mẫu mực và quý báu.

[10]III- NHỮNG BÀI HỌC LỚN

Ở Lãn Ông, nhiều điểm cần được nghiên cứu sâu sắc và học tập nghiêm túc. Ví dụ, trong phương pháp làm việc ông khuyên: "làm việc gì cũng phải để toàn tâm, toàn ý vào đó...". " Khi lòng mình không thành thật thì khó mong thu được kết quả” (Y huấn). Hoặc về dược ông nêu: "Dùng thuốc phải hòa hợp đồng đội và công dụng của các vị thuốc phải được phối hợp chặt chẽ với nhau...", ”...mong người học lấy phương xưa làm khuôn phép, xét cho phù hợp với bệnh hiện nay mà biến thông" (Dược phẩm vị yếu).

Nhưng ở đây hai điểm lớn bao quát cần được nêu trên hết và trước hết là y đức và y thuật.

[10]A. Y ĐỨC

Mở sách "Y tông tâm lĩnh" đã thấy bài "Y huấn cách ngôn” ở phần đầu, đủ hiểu ông chú trọng y đức đến mức rất cao. Trong các quyển sau, nhất là trong quyển "Y âm án" ông nhấn mạnh nhiều lần “Nghề y là một nhân thuật", Theo ông, "nhân" là một đức tính cơ bản của người làm nghề y Đức, tính cơ bản ấy nền là điệu kiện tiên quyết để vào nghề y, nếu không có lòng nhân, không quan tâm đến người khác thì nên đi kiếm sống bằng nghề khác, ít đòi hỏi nhân đạo hơn. Ông nói: "tôi thường thấm thía rằng: thầy thuốc có nhiêm vụ bảo về mạng sống người ta, sự sống chết, điều họa phúc đều ở tay mình xoay chuyển, lẽ nào người có trí túc không đầy đủ, hành động không chu đáo, tâm hồn không khoáng đạt, trí quả cảm không thận trọng mà dám theo đòi bắt chước nghề y”.

Ông nói thêm người thầy thuốc chân chính cần có tám chữ: Nhân, minh, đức, trí, lương, thành, khiêm, cần (biết quan tâm đến người khác, sáng suốt, đức độ, thông minh, rộng lượng, thành thật, khiêm tốn, chăm chỉ, chịu khó). Đồng thời cũng cần tránh mắc tám tội: “Lười, keo, tham, đốt, ác, hẹp hòi, thất đức”(Y âm án ).

Ông khẳng định nghề y liên quan chặt chẽ với đức độ của bản thân và của con cháu lâu dài. Ông nói: "Đạo làm thuốc là một học thuật cao quý để giữ gìn mạng sống, cũng là đầu mối lớn lao về đạo đức chân chính" (Y đạo nãi vệ sinh chi chí thuật, thực đức chi đại đoan). Qua nghề y, người ta có thể bồi đắp chữ "đức" được cao dầy, nếu người đó thực sự giúp ích nhiều cho người bệnh. Nhưng nếu người đó lợi dụng nghề y để hữu ý hoặc vô ý làm những điều có hại cho người khác thì cũng dễ mắc những điểm "thất đức" không nhỏ. Ông phàn nàn: “Than ôi đem nhân thuật làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi ra lòng buôn bán. Như thế thì người sống trách móc, người chết oán hờn, không thể tha thứ được”. Có thể nói: "không có nghề nào nhân đạo bằng nghề y cứu sống người," cũng có thể nói:" không có nghề nào vô nhân đạo bằng nghề y thiếu đạo đức."

Ông thường răn dậy học trò: "Làm thầy thuốc mà không có lòng thương chung (từ) giúp đỡ người khác (tế) làm hằng tâm, không nghiền ngẫm sâu sắc tìm cách cứu sống người mà chỉ chăm chăm kể lợi tính công, lấy của hại người thì còn khác gì bọn giặc cướp."

Tóm lại, theo ông sau khi xác nhận nghề y là một nghề "Nhân đức", người thầy thuốc luôn luôn phải suy nghĩ về bốn chữ "Từ, Tế, Hoạt, Nhân" hằng ngày bồi đắp "Tám chữ xây", và chống lại “ám tội”. "Được như vậy," ... mới khỏi thẹn với hai chữ “Nhân thuật" (Y âm án).

(1) 8 tội thầy thuốc cần tránh:

1. Lười: Lẽ ra phải thăm khám cẩn thận rồi mới bốc thuốc, lại ngại đêm hôm, mưa gió, vất vả, không chịu tự mình đến thăm, cứ cho thuốc qua loa, đó là tội Lười biếng.

2. Keo: Thấy bệnh cần dùng thứ thuốc nào đó mới cứu chữa được, song thầy lo người bệnh không đủ sức trang trải mà cho vị rẻ tiền hơn (ảnh hướng đến hiệu quả chữa bệnh). Đó là tội keo kiệt.

3. Tham: Thấy bệnh đã có cơ nguy, nhưng thầy không bảo ngay cho gia đình biết sự thật, cứ ỡm ờ đến mãi để làm tiền. Đó là lội than lam,

4. Dối: Thấy chứng dễ lại nói dối là khó, nhăn mày, thè lưỡi, dọa người ta sợ khiếp, dễ lấy được nhiều kiến. Đó là lôi lừa dối.

5. Dốt: Nhận chứng thì lờ mờ, sức học thì nông cạn, thiên lệch, bốc thuốc thì công bổ lộn xộn. Đó là tội dốt nát.

6. Ác: Đã thấy đó là chứng khó, lẽ ra phải nói thật cho người nhà biết rồi ra sức mà chữa, lại sợ mang tiếng là người không biết chữa, vừa ngại không thành công, không lấy được nhiều tiền, nên không chịu nhận chữa cứ để mặc người ta bó tay chịu chết. Đó là tôi bất nhân.

7. Hẹp hòi: Có người thường ngày bất bình với mình, khi có bệnh phải nhờ cậy đến thì mình nẩy ý nghĩ trả thù, không chịu hết lòng ra sức trong lúc chữa bệnh. Đó là tội hẹp hòi.

8. Thất đức: Thấy người mồ côi, góa bụa, gia đình hiền, hiếu nhưng mắc cảnh nghèo túng, thấy ngại uổng công (không được bao nhiều tiền) mà không dốc sức giúp đỡ. Đó là tội thất đức.

[12]B. Y THUẬT

Từ xưa tới nay, y học cổ truyền vẫn giữ được những lý luận cơ bản, những khuôn phép chung, không có tình trạng học thuyết mới đào lộn học thuyết cũ. Từ sau công nguyên lại nay, một số y gia ở từng thời đại, ở từng địa phương đã có phần đóng góp về kinh nghiệm y, dược, về luận thuyết này khác để làm phong phú sáng tỏ thêm nội dung của học thuật. Lãn Ông soạn “Y tông tâm lĩnh" muốn "đúc trăm sách thành một bộ”, cũng đã tóm thâu những kiến thức Y học cần thiết. Nhưng trong những phần chung, có thể thấy vài điểm đặc thù trong lập luận và nghiệp vụ: Ông làm thuốc theo lối "vương đạo”, và thiên về "thủy hỏa".

Về thuyết Thủy hỏa, ông dành riêng một quyển chuyên luận gọi là "Huyền Tấn phát vi”. Chỉ riêng trong quyển này cũng đã có hai lần ông nhấn mạnh tầm quan trọng của Thủy - Hỏa: "Nhà y mà không hiểu rõ chân tướng của tiên thiên thái cực, không nghiên cứu tác dụng thần hiệu của Thủy - Hỏa vô hình, không trọng dụng được những bài thuốc hay như Lục vị, Bát vị thì đạo làm thuốc còn thiếu sót đến hơn một nửa". Ông nói: "Đại bệnh chữa Thủy - Hỏa, tiểu bệnh chữa Khí - Huyết". Lãn Ông dùng hai bài Lục vị, Bát vị rất rộng rãi, biện luận nhiều chỗ, rốt cuộc quy vào Thủy - Hỏa. Ông cũng có chú trọng đến thuyết âm dương, đã có những luận điểm về điều hòa âm dương, bổ dương tiếp âm, bổ âm tiếp dương và sáng chế ra những bài thuốc tương ứng, song nổi lên vẫn là thuyết Thủy - Hỏa. Học tập và làm theo ông, trên lâm sàng, nhiều lương y cận đại cũng đã thu được nhiều hiệu quả thực tế, vô hình trung đã thành một học phái gọi là "Học phái Thủy - Hỏa". Tất nhiên thời bấy giờ còn có lương y khác học và làm theo Trương Cảnh Nhạc, hoặc theo Trần Tu Viên mà thành những học phái khác như “Học phái Cảnh Nhạc”, “Học phái Tu Viên". Trong nhân dân ta cũng có câu "Y học thì Thọ thế, cúng tế thì Thọ mai". Có nghĩa là làm nghề y thì nên đọc quyển "Thọ thế bảo nguyên" của Cung Đình Hiền, việc cúng tế thì nên theo quyển "Thọ mai gia lễ". Đớ là mấy nét chung về các xu hướng học phái y học của nước ta trong thời kỳ cận đại. Như vậy, thuyết Thủy - Hỏa cũng được nhiều người áp dụng.

Về loại bệnh ngoại cảm, ông cũng có những lập luận độc đáo. Ông sáng chế ra ba bài giải biểu: 1- Hòa Vinh bảo vê tán tà phương. 2- Điều khí thư uất phương. 3- Lương Huyết tán tà phương. Ông cho rằng "... phàm gặp loại chứng hậu cần phát tán chỉ dùng các bài chữa về khí huyết, thêm một vài vị có tính chất phát dương nhẹ nhàng... cũng có thể... giải tán bệnh tà...” (ngoại cảm). Khí, huyết, vinh, vệ là một phần chính khí. Trong bệnh ngoại cảm ông vẫn chú trọng đến chính khí. Ông nói: "... Lúc nào cũng phải để ý đến chính khí làm đầu. [cứ nhằm chữa chính khí dù] không phát hãn mà hãn tự ra, không công tà mà tà tự rút”... Lập luận của ông nhất trí với kinh văn: - "Sở dĩ là khí [bên ngoài] xâm nhiễm gây hại cho cơ thể là do chính khí [vốn có ở bên trong] đã có phần suy yếu [rối loạn không thỉch ứng nổi]". - (Tà chi sở tấu, kỳ chính tất hư).

Đến thời kỳ cuối của bệnh ngoại cảm, ông vẫn chú trọng đến chính khí, đặc biệt là vẫn vận dụng thuyết Thủy – Hỏa "...Đến khi tà đã lui, thời nên dùng những loại thuốc chính về Thủy - Hỏa để tiếp bổ thêm, không cần phải phân tích vụn vặt mà công hiệu rất mau chóng" (Ngoại cảm). Ông sáng chế thêm sáu bài hòa lý nhằm bồi dưỡng tạng khí, Thủy - Hỏa, Khí - Huyết:

  • Gia giảm lục vị địa hoàng thang
  • Gia giảm bát vị địa hoàng thang
  • Gia giảm Tứ vật thang,
  • Gia giảm Tứ quân tử thang
  • Bổ tỳ âm phương
  • Bố vị dương phương.

Như trên, rõ ràng là về bệnh ngoại cảm cũng như bệnh nội thương, ông đều chú ý đến bồi bổ chính khí. Chú trọng mặt bồi bổ trong khi chữa bệnh là đường lối của phái "Vương đạo", khác với đường lối của phái "Bá đạo", thiên về phép công tà. Trong đường lối chữa bệnh "Vương đạo” trong bệnh nội thương, cả trong loại bệnh ngoại cảm ông vẫn trọng dụng thuyết Thủy - Hỏa. Đó là hai đặc điểm nổi bật được Lãn Ông chủ trương và trình bày.

Tuy nhiên bên cạnh những đặc điểm nói trên, cũng cần chú ý đến những điểm do điều kiện lịch sử hạn chế: - Thầy, bạn, sách... Qua hai trăm năm, nhiều luận thuyết được phát huy, phát triển, một số quan điểm được xác minh, đề cập, nhiều vấn đề được nghiên cứu thêm, nhiều phương tiên, phương pháp được áp dụng rộng rãi. Do vậy, ở thời điểm ngày nay, người Y học cổ truyền muốn có kiến thức toàn điện và phong phú cần chú ý thêm đến các vấn đề mới có sau này.