Skip to content

Mạch

Mạch, tức là khí huyết của người ta, ký ngụ trong hơi thở, biểu hiện ra ở hai tay. Mỗi tay chia ra ba bộ, bộ Thốn là dương, bộ Xích là âm, bộ Quan là chỗ giũa âm và dương. Nói về mạch bình thưòng, lần lượt xem lề từng bộ. Bộ Thốn của tay trái, là vị trí của tâm và tiểu tràng; thuộc hành hỏa, hiện ra phù đại mà tán là mạch bình thường. Bộ quan tay trái, là vị trí của can với đởm; thuộc hành mộc, huyền mà nhuyễn là mạch bình thường. Bộ Xích tay trái, là vị trí của thận với bàng quang, thuộc thủy, trầm mà hoạt là mạch bình thường. Bộ Thốn bên tay phải, là vị trí của phế với đại tràng, thuộc hành kim, mạch hiện ra phù mà sác là loại mạch bình thường. Bộ Quan ở tay phải, là vị trí của tỳ và vị, thuộc hành thổ, hòa mà hoãn là mạch bình thường. Bộ Xích của tay phải, là vị trí của thận và tâm bào lạc, tam tiêu, thuộc vào tướng hỏa, mạch trầm mà thực là mạch bình thường. Gộp cả ba bộ xem chung, mà trong mỗi hơi thở mạch đập 4 nhịp (cứ một lần thở ra và hít vào của ta thì gọi là một hơi, lấy một hơi đó làm mức độ mà mạch hiện ra và lẫn vào bốn lần), không trầm, không phù, không trì, không sác, qua lại hòa hoãn có vẻ đều đặn, đó là loại mạch bình thường, không có bệnh. Còn như khi đã mắc bệnh, phải tùy theo khi huyết, thịnh suy, hàn nhiệt của từng người mà mạch sẽ biến hóa khác thường. Những người khí huyết thịnh mà nhiệt, thì khi càm phải tà lục dâm (phong hàn thử thấp táo hỏa), mạch sẽ biến ra phù, sác, hồng, trường, hoạt, đại, huyền, khẩn, khâu, thực đều là loại mạch dương. Đó là bệnh ngoại cảm ở ngoài biểu, là thuộc ngoại tà thực.

Khí huyết của người hư mà hàn, khi bị nội thương vì thất tình (mừng, giận, lo nghỉĩ, buồn, kinh, sợ) thì mạch sẽ biến ra các dạng trầm, trì, nhuyễn, nhược nhu, sắc, hoãn, phục, tế, hư đều là loại mạch âm. Đó là bệnh nội thương ở lý, là chính khí hư. Mạch có 27 loại, tập Mạch Quyết của Vương Thúc Hòa đã có bàn rõ ràng. Nhưng tên mạch thì nhiều, lý của mạch thì huyền vi khó mà dò xét được. Nay nói gọn lại, mạch phù, mạch sắc là cùng loại mạch dương, mạch tràm, mạch trị là cùng loại mạch âm, gọi chung là bổn thứ mạch lớn để cho ai nấy dễ tìm hiểu. Đặt đầu ngón tay vào để tìm, mới nhẹ tay ấn vào mặt da đã thấy mạch đập, đó là mạch phù. Lấy hơi hít thở để so đo trong một hơi thở mạch đập 5-6 nhịp, đó là mạch sắc nhưng khi ấn mạnh tay xuống đến phần thịt thấy mạch dội vào đầu ngón tay, càng ấn sâu xuống gần xương mà sức mạch đập không hề sụt giảm, đó là loại mạch phù sắc có lực. Vậy thì phù là phong, sác là nhiệt không còn phải nghi ngờ gì nữa, phải cho trục phong thanh nhiệt không có hại gì cả. Nếu ấn tay xuống dần dần, thấy sức của mạch cũng giảm dần, không thấy mạch dội vào đầu ngón tay, tức là mạch phù sắc không có lực, là mạch do hư hỏa hư nhiệt, hoặc do khí huyết hư, đều dùng phép chữa bệnh nội thương mà chữa; không được theo một mặt cứ cho là do phồng do nhiệt. Lấy đó mà suy ra các loại mạch khác như hồng, đại (lớn), hoạt trường.

Đặt đầu ngón tay mà xem, đặt nhẹ ở da chưa thấy mạch, ấn xuống tới thịt mới bắt đầu thấy mạch, ấn tay dần dần xuống tới gần xương, mạch đập rõ dần, tức là mạch trầm. Lấy hơi thở làm mức độ, cứ mỗi một hơi mạch tới có ba lần hoặc chưa tới ba lần, đó là mạch trì. Nhưng dần dần ấn mạnh tay hơn; mà không thấy mạch dội ở đầu ngón tay, càng ấn thì lực mạch càng giảm đó là mạch trầm trì mà không có lực. Vậy thì trầm trì tức là hàn, là lạnh đã rõ ràng, cần dùng loại thuốc nhiệt ôn bổ không có hại gì. Nếu ấn tay xuống dần dãn, thấy mạch dội ở đau ngón tay, sức dội càng mạnh dần lên, tức là mạch trầm trì có lực, là có chứng tích tụ hoặc chứng trưng hà; ở loại bệnh thương hàn thì đó là chứng có nhiệt vào tạng phủ, nên dùng thuốc ôn bổ để tiêu tích tụ, hoặc dùng thuốc hạ để thông lợi phân táo bón, không thể một mực cho đó là hàn lạnh được. [Từ đó mà] suy tới các loại mạch hư, tế, nhu, sáp đều như vậy. Sách nói: “Mạch càng phù sác thì mức độ hư càng nặng. “Đó là nói về dạng mạch phù sác mà vô lực. Tóm lại mạch dương mà có lực thì có thể luận chứng theo bệnh dương tính, nên cho dùng phép thanh giải hoặc cho phát hãn; nếu mạch dương mà không có lực, thì nên luận chứng theo hư hàn. Mạch âm mà không có lực, có thể luận chứng là âm tính, dùng thuốc ôn tán hoặc ôn bổ. Nếu mạch âm mà có lực, thì nên luận theo chứng thực nhiệt. Vậy mạch có lực hay không có lực đã là một tiêu chuẩn để xét bệnh chưa? Mạch của chứng bị ức chế mà hoãn, hoặc mạch của người bị kính khiếp mà có mạch phục, hoặc đau dữ cũng có khi có mạch phục, bệnh thổ tả dữ cũng có mạch phục, cho nên không thể coi cả loạt chung chung được. Chỉ căn cứ vào mạch có vị khí thì sóng, không có vị khí thì chết. Cho nên ấn nhẹ để tìm khí của phủ; ấn sâu để tìm khí của tạng; ấn trung bình để tìm vị khí. Ấn trung bình tức là đặt ngón tay ấn vừa phải không nặng quá không nhẹ quá. Nhưng không phải chỉ có như vậy đã đủ. Như về mùa xuân thì can mộc vượng, sáu mạch đều kèm thêm vẻ hơi huyền; về mùa hè thì tâm hư vượng, sáu mạch đều kèm thêm vỏ hơi hông; về mùa thu thì phế kim vượng, sáu mạch đều kèm thêm vẻ hơi mao [nổi nhẹ]; về mùa đông thì thận thủy vượng, mạch sáu bộ đều kèm thêm vẻ thạch [chìm chắc]; mạch ở bốn tháng cuối của bốn mùa là tháng tỳ thổ vượng, sau bộ mạch đều kèm thêm vẻ hòa hoãn. Đó là mạch có vị khí. Nếu chỉ thấy đơn thuần mạch huyền, mạch hồng, mạch mao hay mạch thạch mà không có vẻ hòa hoãn là mạch chân tạng, mạch không có vị khí ở trẻ nhỏ; mạch nên có vẻ hồng sác. Mạch của người trai tráng thì nên hồng hoạt. Mới mắc bệnh thì mạch nên hồng và trường. Bệnh thuộc dương có loại mạch dương là mạch với bệnh ứng hợp nhau, là loại bệnh dễ chữa. Song ở trong hiện tượng hồng hoạt phải có chút về hòa dịu không đến nói quá cứng rắn mới có mạch có vị khí. Người mới để thì nên có mạch tế nhược. Mạch người già thì nên có mạch nhu nhược. Người ốm đã lâu thì nên có mạch nhu tế. Bệnh thuộc âm có loại mạch âm, là mạch với bệnh ứng hợp nhau là bệnh dễ chưa. Nhưng trong hiện tượng nhu nhược còn có vẻ lưu lợi, không nên quá nhu mới là mạch có vị khí. Nếu mạch hồng sác, chỉ thấy một vẻ hồng sác, mạch nhu nhược chỉ thấy một vẻ nhu nhược đều là mạch không có vị khí. Bệnh đáng lẽ có mạch hồng sác mà lại trì nhu, đáng lẽ trì nhu mà lại hồng sắc là bệnh dương lại hiện mạch âm, bệnh âm lại hiện mạch dương. Đó là mạch và bệnh trái chiều nhau, rất khó chữa. Còn như mạch của các chứng nhiệt quyết, hàn quyết; âm cực, dương cực đã có ghi rõ ở “mạch ca” không cần nhắc lại ở đây. Những nét trình bày trên đây là để xen kẽ vào bốn mạch lớn để quyết đoán rõ bệnh thuộc biểu lý, hư thực, hàn nhiệt.

Bàn về hiện tượng mạch nên có và không nên có trong từng mùa như sau: Mùa xuân nên có mạch huyền không nên có mạch sác, vì kim khắc mộc. Mùa hạ nên có mạch hồng, không nên có mạch trầm, vì thủy khắc hỏa. Mùa thu nên có mạch mao, không nên có mạch hồng, vì hỏa khắc kim. Mùa đông nên có mạch trầm hoạt không nên có mạch hoãn, vì thổ khác thủy. – Khi xem riêng từng bộ vị, mạch tâm ở bộ thốn bên tay trái, kỵ mạch trầm. Bộ quan tay trái thuộc can, kỵ mạch sác; Bộ xích tay trái thuộc thận, kỵ mạch hoãn; Bộ thốn tay phải thuộc phế, kỵ mạch hồng; Bộ quan tay phải thuộc tỳ kỵ mạch huyền; Bộ xích tay phải thuộc hỏa, Kỵ mạch trì. Đó là sơ lược theo tùng bộ cần phải biết rõ. Cách xem mạch, thầy thuốc còn cần đọc lý lẽ sinh khác của ngũ hành, thứ tự vận hành của kinh lạc, cơ chế dị đồng của âm dương. Nói về luật tương sinh, thì thận thủy sinh can mộc, can mộc sinh tâm hỏa, tâm hỏa tiếp sức cho mệnh môn tướng hỏa để sinh ra tỳ thổ; tỳ thổ sinh ra phế kim, phế kim lại sinh ra thận thủy, tới chỗ cuối lại bát đầu vòng khác không hề ngắt quãng, người thầy thuốc biết điều đó, để sáng tỏ cái lý hư thì bổ mẹ, thức thì tả con. – Nói về luật tương khắc thì tà xích là thủy khắc hữu xích thuộc hỏa, tả quan thuộc mộc khắc hữu quan thuộc thổ, tả thốn là hỏa khắc hữu thốn là kim. Hai bên trái và phải giống đôi nhau thì khắc chế lẫn nhau. Thầy thuốc biết điều đó để hiểu rõ cái lẽ [vì sao hành này] làm giảm mức thái quá [của hành kia] hoặc [hành này] bòi bô sự bất cập [của hãnh kia]. Lý lẽ sinh khắc của ngũ hành là như vậy.