Skip to content

Phương thuốc có bảy loại:

  • Đại phương; những bệnh lớn có nhiều kiểm chứng, không thể lấy một vài vị để có đủ sức điều trị, phải dùng phương thuốc lớn gồm có một quân ba thần, chín tá. Bệnh ở hai kinh can thận, hoặc bệnh ở bộ vị phía dưới đều ở những chỗ xa, thì phải dùng liều lượng thuốc lớn, cho uống cả một lần, đó là “Đại phương”. Tiểu phương; Bệnh ở trên và bệnh ở hai kinh tâm phế, đều ở chỗ gần gũi thì phải dùng phần lượng nhỏ, phương thuốc nhỏ để cho uống cả một lần.
  • Hoãn phương; Khi cần bổ dưỡng hoặc trị bệnh ở phía trên và trị chủ chứng thì nên hòa hoãn ở trong. Có khi dùng chất thuốc ngọt làm cho sức thuốc hoãn lại ở phần ngực bụng, lưu tại đó để biến sinh tác dụng. Có khi dùng thuốc viên (hoàn) để hòa hoãn [như] bệnh ở trung tiêu để sức thuốc vận hành thong thả có khi trong bài thuốc dùng nhiều vị có sức ngang bằng nhau để lấy tính giằng co nhau tạo nên thế trì hoãn cho bài thuốc. Có khi dùng bài thuốc hòa hoãn bằng những loại thuốc không có độc, có ý muốn dùng chất không độc để giải quyết dần dà. Có khi dùng bài thuốc hoãn có những vị thuốc có khí vị nhạt nhẽo, là ý muốn lấy khí vị nhạt đó có sở trường chữa được bệnh ở trên, khi thuốc còn lại xuống tới phía dưới thì đã suy giảm rồi. Bởi vì thầy giỏi chữa bệnh ở trên không để phạm tới dưới, trị phía dưới không để phạm tới trên, trị ở giữa thì không để phạm tội trên và dưới. Cho nên dùng thức ăn trước để cho thuốc lọt qua, như khi dùng thuốc trị cho thận thì trở ngại đến tâm, khi uống thuốc nên cho ăn lót qua, để cho thuốc thận không làm hoãn tâm. Lại như khi dùng Hoàng cầm để trị phế tất trở ngại tới tỳ. Dùng Thung dung để trị thận tất thương tổn tới tâm. Uống Can khương để chữa phần giữa sẽ gây bốc ở trên; uống Phụ tử để bổ thận (hỏa) tất làm khô thủy. [Trên đây] nêu một số ví dụ để suy nghĩ về cách nên dùng hoàn phương.
  • Cấp phương: Bổ cho phía dưới, hoặc trị bệnh ở phía dưới, và trị các khách chứng nên dùng phương cấp. Có lúc dùng phương cấp để công trục gấp như loại bệnh trúng phong, quan cách v.v… Có những phương cấp là loại thuốc thang có công năng khơi vét dội rửa để cho khi nuốt xuống rồi thì thuốc dễ vận hành được nhanh. Có những phương cấp là thuốc có độc, để cho chất độc gây ra mửa ỉa mạnh để chặn đoạt thế bệnh. Có những phương cấp là những vị thuốc có khi vị đậm nồng, để cho cái chất nồng đậm của nó chuyển thẳng xuống dưới mà sức thuốc vẫn không giảm kém.
  • Cơ phương: Có những cơ phương chỉ dùng có một vị, để phù hợp dùng cho những bệnh gằn ở phía trên. Có những cơ phương có số lượng vị thuốc phù hợp với só dương (1, 3, 5, 7, 9) bệnh ở phần lý và ở gàn thỉ dùng loại đo’. Như bài Tiểu thừa khí là cơ phương loại nhỏ. Dại thừa khí là cơ phương loại cỡ lớn, đ4 dùng cho khi nào cần công lý là khi chúng chỉ nên hạ chứ không nên hãn thì mới dùng; cho nên mới nói là phát hãn không nên dùng cơ phương là như vậy
  • Ngẫu phương: Có ngẫu phương là hai vị thuốc kết cấu với nhau, có Ngẫu phương là hai bài kết hợp với nhau, những bệnh ở dưới và ở xa thì nên dùng Ngẫu phương. Có khi Ngẫu phương là những bài có số lượng vị thuốc hợp với số âm (2, 4, 6, 8). Bệnh ở biểu mà xa thì nên dùng như Quế chi thang, Ma hoàng thang, là Ngẫu phương loại nhỏ, Cát căn thang với Thanh long thang là Ngẫu phương loại lớn. Bệnh đang phát tán thì nên dùng, đáng cho hãn mà không đáng hạ, cho nên nói phép hạ thì chớ nên dùng Ngẫu phương là như vậy.
  • Phúc phương: Phúc có nghĩa là hai lần, xét thấy dùng cơ phương không đủ để trừ bệnh, hoặc dùng Ngẫu phương đơn thuần cũng không đủ để trừ bệnh, thì gộp lại cả số cơ và ngẫu để trừ; cái gọi là Phúc phương có ý nghĩa là trùng phúc (lặp lại), như dùng mươi vị bổ có một vị tiết; hoặc vài vị tiết có một vị bổ. Có khi Phúc phương là do vài ba phương hợp lại. Như loại bài Quế chi Việt tỳ thang, bài ngũ tích tán v.v… Có khi từ một bài gốc nào đó, rồi gia thêm thuốc điều hòa, như bài Điều vị thừa khí thang gia thêm Liên kiều, Bạc hà, Hoàng cầm, Chi tử biến thành bài Lương cách tán. Có những Phúc phương trong đó phân lạng các vị đều nhau, như bài Vị linh thang phân lượng các vị đều bằng nhau. Bẩy loại phương trên, nên xét tùy bệnh dùng thuốc, để mau thu hiệu quả.
  • Việc chế thuốc, cốt cho vừa mức. Chế bằng lửa, có bốn cách: Nung, bào, sao, nướng. Ngoài ra còn có cách lùi, sấy bồi. Chế bằng nước, có ba cách: Ngâm, bào, tẩy (dội nước nóng cho ra bọt, rửa nước lạnh cho sạch bẩn). Chế bằng cả nước và lửa, có hai cách: Hấp, nậu.- Nung, là dùng đất hoặc bột mịn, bọc thuốc vào trong, cho vào giữa đám lửa để đốt cho cháy đỏ,- Bào (1) là cho thuốc với rượu hoặc nước vào trong cái vỏ, rồi đốt lửa ở ngoài.- Nướng là nướng trên than – sao là rang cách qua nồi rang – Ngâm là ngâm thuốc vào trong rượu,trong nước cho ngấm dần ra. Bào dùng rượu nóng để chắt lấy chất thuốc roi bỏ bã. Tẩy là cho thuốc vào rượu hoặc nước rồi rửa qua. Lùi là cho dược vật vào trong than nóng để lùi cho chín. Sấy là để gần hơi lửa cho khô. Bồi là cho nhỏ lửa rang qua cho khô không cho sém cháy, chỉ cho thuốc khô là được. Hấp là đun hấp cách thủy. Nấu là cho thuốc trực tiếp vào nước để nấu ninh kỹ Cách chế tạo thuốc dù có nhiều cách, nhưng không ngoài những cách sau đây: Muốn cho sức thuốc đi lên thì chế tẩm bằng rượu. Muốn cho thuốc phát tán thì cho gừng tươi. Muốn cho thuốc vào thận mà làm mềm chất rắn thì chế bằng muối. Muốn cho vào can và trừ chứng đau thì chế với dấm. Muốn trừ bỏ tính nóng bốc phải đưa xuống thì chế bằng nước đồng tiện. Muốn trừ cái tính khô khan của dược vật thì ngâm chế bằng nước vo gạo. Muốn làm nhuận vật khô để sinh huyết thì bọc bột tẩm sữa mà chế. Muốn cho ngọt dịu bổ ích khí thì chế với mật. Chế thuốc bằng đất vách là có ý mượn khí của thổ để dẫn thuốc nhanh chóng vào trung tiêu (tỳ và vị). Chế bằng bột lúa mạch là để nén cái tính mạnh dữ khỏi làm thương tổn vùng thượng cách. Nước đậu đen, và nước Cam thảo dùng chế tẩm thuốc đều có công giải độc, đưa lại tính bình hòa. Mỡ dê và mỡ lợn tẩm bôi đốt hơ để dễ nghiền tán. Bổ trữ các múi xơ trong ruột của thuốc để cho khối sinh trướng đầy. Rút bỏ lõi để cho phát phiền.

Về phần thuốc sử dụng, có thứ phải nên dùng hoàn, dùng tán, dùng thang, dùng rượu, dùng cao khác nhau. “Hoàn” có nghĩa là hòa hoãn, khi trị vào gốc thì nên dùng loại này. “Tán” có nghĩa là gấp vội, khi trị ngọn thì nên dùng. “Thang” là đẩy rửa, khi cần trị bệnh lâu ngày thì nên dùng. Muốn tán hàn thì nên dùng thuốc ngâm rượu. Muốn bổ hư thì nên dùng loại thuốc nấu cao. Bệnh ở trên chỗ rất cao thì nên nấu với rượu. Trừ hàn thấp nên nấu với gừng. Bổ nguyên khí thì nấu với táo. Phát tán thì nấu thuốc với hành. Trừ đàm ở trên thì nấu với mật.

Thuốc hoàn dùng để chữa bệnh ở trên thì nên viên rất nhỏ; bệnh ở giữa thì dùng viên nhỏ vừa; bệnh ở dưới thì hoàn viên lớn. Dùng dấm rượu làm hoàn để cho dễ tan, Dùng bột hồ gạo làm hoàn là để cho dễ tiêu. Dùng mật làm hoàn là để chỗ hòa dịu. Dùng sáp làm hoàn là để cho chậm tan, và để cho đi nhanh khỏi hại tới vị khí.

Trên đây trình bày sơ lược. Các bậc sơ học cần phải xem kỹ. Luận về sự cấm kỵ trong ngũ vị; ở bệnh can nên dùng ngọt, cấm vị cay, ở bệnh tâm nên dùng cay, cấm vị chua; ở bệnh phế nên dùng chua, cấm vị đắng; ở bệnh thận nên dùng đắng, cấm vị ngọt. Những bệnh của năm tạng bất túc sợ dùng vị của hành khắc lại nói [ví dụ bệnh can hư sợ vị cay thuộc hành kim, vì kim khắc mộc, mộc là can]; cần bồi bổ bằng vị của hành mà nó thắng được – [ví dụ bệnh can hư nên dùng vị ngọt thuộc hành thổ, vị mộc (can khắc thổ (ngọt)]