Kinh lạc
Kinh lạc gì? Đường kinh thì đi thẳng, đường lạc thì từ đường kinh rẽ tách ngang ra. Hay nói qua về sự vân hành ngày đêm. Kinh thủ thái âm phế, trong mỗi ngày từ giờ dần, đi từ huyệt Trung phủ, đi quanh trên sườn số ba, ở trên vú, men theo phía dưới cánh tay đi tới huyệtThiếu thương thì ngừng (ở mé trong của hai đầu ngón cái). Kinh thủ dương minh đại tràng ứng vào giờ Mão, đi tù huyệt Thiếu thương sang nối với huyệt Thương dương (mé trong ngón trỏ), theo khuỷu tay đi lên tới bên mũi chỗ huyệt Nghinh hương thì ngừng (chỗ lõm bên mũi). Kinh Túc dương minh vị ứng vào giờ Thìn, đi từ huyện Nghinh hương lên nối với huyệt Thừa Khấp (dưới khuông mắt cách bẩy phân thẳng từ con ngươi mắt xuống), đi lên tới huyện Đầu duy (chân tóc góc trán qua huyệt Nhân Nghinh (cách bên Yết hầu 1,5 thốn phía ngoài đường gân lớn), theo ngực bụng xuống tới huyệt Lệ đoài ở đầu ngón chân thì ngừng (đầu ngón chân thứ 2 bên ngón cái).
Túc Thái âm tỳ, ứng vào giờ Ty, đi từ huyệt Xung dương (từ kẽ ngón chân thứ hai, thứ ba trở lên ba thốn) rẽ ngang sang nối vào huyệt ẩn bạch (mé trong đầu ngón chân cái) theo đùi bụng đi lên chỗ huyệt Đại bao ở dưới nách (ở chỗ bên sườn từ hố nách trở xuống 3 tấc). Kinh của Thủ Thiếu âm tâm, ứng vào giờ Ngọ, bắt đầu từ huyệt Đại bao đi lên nổi với huyệt Cực tuyền dưới nách (chỗ kẽ sườn dưới nách có đường mạch vào lồng ngực) theo cánh tay đến huyệt Thiếu xung thì ngừng (mé trong của hai ngón tay út). Kinh mạch Thủ Thái dương tiểu trường, ứng vào giờ Mùi, bắt đầu từ huyệt Thiếu xung nói với huyệt Thiếu trạch (mé ngoài ngón tay út) men theo cánh tay đi lên đến huyệt Thính cung (bên hạt châu trước tai). Kinh Túc thái dương bàng quang ứng vào giờ Thân từ huyệt Thính cung đêh nối với huyệt Tình minh (ở khóe mất trong) theo đầu cổ xuống lưng, eo lưng, đùi đến huyệt Chí âm ở chân (mé ngoài ngón chân út). Kinh Túc thiếu âm thận, ứng vào ỹờ Dậu bắt đầu từ huyệt Chí âm nối với huyệt Dũng tuyền (ở gan bàn chân) theo gối, bụng đi lên đến huyệt Du phủ ở trên ngực (ở cạnh xương ức) Kinh Thủ quyết âm tâm bào, ứng vào giờ tuất, bắt đầu từ huyệt Du phủ nối với huyệt Thiên trì (ở chó lõm dưới vú) cách 2 thốn kể từ chỗ dưới vú ngang ra), theo cánh tay đi xuống tới huyệt Trung xung thì ngừng (chổ đầu ngón tay giữa). Kinh Thủ Thiếu dương tam tiêu, ứng vào giờ Hợi từ huyệt Trung xung nối với huyệt Quan xung (mé ngoài đầu ngón tay thứ tư) theo cánh tay đi lên đến mặt vào huyệt Nhĩ môn (trên múi thịt nhô cao ngang với rãnh khuyết trước tai). Kỉnh Túc Thiếu dương đởm, ứng vào giở Tý, bắt đầu từ huyệt Nhĩ môn nối vớị huyệt Đồng tử liêu ở đuôi mắt (cách đuôi con mất 5 phân), theo phía bên đầu mắt, bên sườn, đi xuống chân đến đầu ngón chân thứ tư thì ngừng (đầu ngón chân thứ tư). Kinh Túc Quyết âm còn ứng vào giờ Sửu, bắt đầu tù huyệt Khiếu Sm nói với huyệt Đại đôn (đầu ngón chân cái) theo trong gối, bẹn đi lên bụng đến huyệt Kỳ môn thì ngừng (ở dưới sườn sổ 3 dưới vú) đến giờ Dần [kinh khí của can] lại đi sang kinh phế. Dó là 12 kinh tạng phủ, ứng với 12 mạch, hết vòng lại bắt đầu. Người th&y thuốc biết rõ đường đi của kinh lạc, để nhận xét căn nguyên bệnh. Ta biết rằng Thủ thái âm phế, Thủ Thiếu âm tâm, Thủ Quyết âm tâm bào đều từ bụng đi ra tay, cho nên gọi là Thủ tam âm. Thủ Thái dương Tiểu tràng, Thủ Dương minh Đại tràng, Thủ Thiếu dương Tam tiêu đều từ tay đi lên đầu, cho nên gọi là Thủ Tam dương. Kinh Túc Thái âm tỳ, Túc Thiếu âm thận, Túc Quyết Am can đều từ chân đi vào bụng, cho nên gọi là Túc Tam âm. Kinh Túc Thái dương bàng quang, kinh Túc dương minh vị, kinh Túc Thiếu dương đởm đều tử [đầu] đi xuống chân, cho nên gọi là Túc tâm dương. Trên đây là thứ tự của kinh lạc vận hành